30/3/24

 Điện Biên Phủ qua từng trang hồi ức



Bảy mươi năm đã trôi qua, những ký ức hào hùng trong trận chiến “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” vẫn còn vẹn nguyên trong tâm trí của Đại tá, cựu chiến binh Lê Khắc Phấn, người lính Điện Biên năm xưa.
Chúng tôi về tổ dân phố Yên Trung, phường Ba Hàng, thành phố Phổ Yên (tỉnh Thái Nguyên) để thăm Đại tá Lê Khắc Phấn. Mặc bộ quân phục với nhiều huân, huy chương đeo hai bên ngực, với nụ cười trìu mến ông mời chúng tôi vào nhà.
Bên ấm trà mới pha, người chiến sĩ Điện Biên năm nào chậm rãi nhắc nhớ những ký ức hào hùng, hoài niệm những bài thơ viết về chiến trận Điện Biên sau ngày chiến thắng. “Tôi sinh năm 1927, ở thôn Kim Cốc, xã Mai Lâm, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Tôi nhập ngũ năm 20 tuổi, là con một trong nhà nên cán bộ ở Huyện đội không đồng ý cho ra mặt trận. Thời gian đầu tôi làm công việc giao liên nhưng trong lòng luôn mong muốn được cầm súng ra chiến trường đánh giặc”, Đại tá, cựu chiến binh Lê Khắc Phấn nói.
Sau hai năm học tập, huấn luyện, cuối năm 1949 ông hành quân lên phía Bắc, đến Cao Bằng người lính trẻ được biên chế vào Trung đội 2, Đại đội 924, Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 174, Đại đoàn 316; chức vụ của ông lúc ấy là Trung đội phó. Sau khi tham gia chiến dịch Tây Bắc, cuối năm 1953 ông cùng đồng đội hành quân lên Điện Biên tham gia chiến trận trong điều kiện vô cùng gian khổ, nhất là về đường đi, vận chuyển lương thực và vũ khí.
“Trận đầu A1 sấm rền chiều hôm”
Ngày 30-3-1954, Đại đoàn 316 được lệnh đánh, Trung đoàn 174 của ông trực tiếp đánh đồi A1. Là trận đánh khó khăn, kéo dài và thương vong nhiều nhất trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Khác với các cứ điểm khác, ngoài đường giao thông hào bao quanh đồi A1 ông cùng các đồng đội thay nhau dùng cuốc chim, xẻng đào hầm ngầm dài khoảng 50m, sau hai tuần thì mới tiến được vào chân hầm địch. Nhấp một ngụm trà, ông bồi hồi: “Buổi đầu xuất quân trời mưa như trút nước, sấm chớp rền vang trên bầu trời Điện Biên, nước ngập hết giao thông hào, nhiều đoạn trơn trượt tôi và đồng đội ngã ướt hết cả quần áo, nắm cơm cạnh sườn cũng lấm lem bùn đất. Khi tiến đến gần chân đồn địch, quân ta vừa đói, vừa rét, khi ăn cơm phải gạt bớt bùn đất ra mà ăn, gian khổ vô cùng”.
Sau này ông có viết bài thơ, có những câu: “Nhớ hồi chiến trận Điện Biên/ Trận đầu A1 sấm rền chiều hôm/ Tiến quân trời đổ mưa tuôn/ Ướt người, ướt cả nắm cơm cạnh sườn/ Chiến hào nước ngập bùn trơn/ Để ai trượt ngã cho cơm đẫm bùn/ Không ăn bụng đói dạ run/ Ăn thì phải gạt bớt bùn mà ăn/ Chiến trường ngàn vạn khó khăn/ Tinh thần quyết thắng quên băng chiến hào!”.
Theo lời ông kể, có những đêm cả trăm đồng chí đào hầm ngầm nhưng vì hỏa lực của địch bắn như mưa, tới sáng chỉ một phần ba lực lượng còn sống, nhiều anh em nằm xuống chẳng toàn thây. Ông cùng những người còn sống đi nhặt từng mảnh thi thể, đôi mắt ai cũng đỏ hoe vì thương đồng đội, vì căm giặc Pháp. Đưa tay lên ngực vỗ vào những huy hiệu cao quý sáng ngời, ông kể: “Ngày xưa ra chiến trận anh em chúng tôi ai cũng quan niệm không xanh cỏ thì đỏ ngực, chẳng ai sợ hãi cái chết. Lúc chưa nghe tiếng súng thì cũng nhớ mẹ, nhớ cha, có anh thì nhớ người yêu nhưng khi tiếng súng đã vang lên thì chẳng nhớ nhung gì nữa, chỉ biết xông lên đánh giặc giành lại hòa bình”.
Hơn 30 ngày chiếm giữ đồi A1, ta và địch giành nhau từng tấc đất, từng mét hào, khói lửa phủ kín bầu trời. Có những lúc tưởng chừng địch đã đánh bật ta ra khỏi đồi A1 nhưng với tinh thần quyết chiến, quyết thắng ông cùng các đồng đội vững tay súng, kiên trì đẩy lùi từng đợt phản công của địch. Như chạm vào khoảnh khắc oai hùng nhất của cuộc đời, ánh mắt rực sáng, ông cất cao giọng tự hào: “Tới ngày 6-5-1954 gần 1000kg thuốc nổ quân ta đưa vào chân đồn địch được điểm hỏa. Một ánh chớp lóe sáng kèm theo tiếng nổ trầm đục, cột khói cao vút bốc lên trời. Chúng tôi xông lên giải phóng cứ điểm A1 rồi tấn công sang hầm De Castries. Đến ngày 7-5-1954 tướng De Castries bị bắt sống, lúc đó hắn ta mặc quần soóc, áo vàng, đội mũ chào mào, tay cầm ba-tong, cúi đầu đi ra từ hầm chỉ huy. Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc, tôi cùng đồng đội vỡ òa sung sướng, ôm lấy nhau rồi reo hò mừng thắng lợi”.
“Người lính quyết tử yên nằm hiên ngang”


Trở về từ cuộc chiến, ông xây dựng tổ ấm nhỏ rồi tham gia công tác tại Tổng cục Hậu cần, làm việc tại Trường Trung cấp Quân nhu cho tới khi nghỉ hưu năm 1985. Vừa kể, ông vừa cho tôi xem những phần thưởng, kỷ vật về một thời quá khứ oanh liệt của mình. Trên tường nhà ông trang trọng treo đủ Huân chương Kháng chiến hạng Nhất; Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất; Huân chương Quân công hạng Nhì; Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng… Trên ngực áo những huy chương lấp lánh cũng được ông Phấn cài ngay ngắn, chỉnh tề. Gương mặt người Đại tá không giấu nổi niềm tự hào về một chặng đường quá khứ rất vẻ vang.
Một thời hào hùng được ông ghi chép lại qua những tập thơ cùng bao trang hồi ức, nhất là nỗi niềm nhớ thương đồng đội, ở cuối những trang hồi ký về chiến trận Điện Biên, ông viết: “Chiến dịch Điện Biên kết thúc. Và cũng là cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc. Tuy nhiên, đại thắng địch ở Điện Biên nhưng quân ta cũng hy sinh nhiều. Riêng đồi A1, đơn vị tham gia đều có người hy sinh và tổng số là 640 chiến sĩ ở A1”. Năm 2014, ông có dịp thăm lại chiến trường xưa, đứng giữa cánh đồng Điện Biên ông như hồi tưởng lại cả một thời hoa lửa: “Vẳng nghe tiếng vọng không trung/ Âm vang bộc phá nổ tung bốt đồn/ Âm vang súng pháo vang dồn/ Từng chùm cao xạ vút lên bầu trời”. Về khu đông thăm đồi A1, ông viếng thăm nghĩa trang liệt sĩ, các phần mộ trong nghĩa trang hầu hết là phần mộ chưa xác định được tên tuổi. Nhìn thấy đồng đội nằm lại nơi đây, không giấu được niềm xúc động ông đặt bút viết bài thơ: “A1 ghi đậm ngàn năm/ Người lính quyết tử yên nằm hiên ngang/ Đoàn quân mũ lưới ngụy trang/ Oai phong chiến trận bia vàng thiêng liêng/ Trận tiền đại thắng Điện Biên/ Nước non in dấu đẹp thiên sử vàng!”.
Đôi mắt rớm lệ, hai tay đan vào nhau, ông xúc động: “Nước nhà độc lập, nhìn các anh nằm lại chiến trường tôi thương và nhớ đồng đội quá, nhiều anh khi ấy còn chưa có vợ, có con”. Vị Đại tá già chậm rãi thắp một nén hương trước bàn thờ gia tiên, mùi trầm thơm tỏa khắp gian nhà, ông đưa tay lau giọt nước mắt: “Thắp nén hương trầm tôi cầu mong các anh yên giấc ngàn năm”. Chiến thắng này là của toàn dân tộc, của toàn quân, của các chiến sĩ Điện Biên. Người trước ngã xuống, người sau xông lên mới có được thắng lợi này. Bảy mươi năm đã trôi qua, những hồi ức của một thời hoa lửa vẫn vẹn nguyên trong tâm trí người lính Điện Biên năm ấy, bao bài thơ về những ngày chiến trận vẫn được ông nắn nót viết ra mỗi dịp tháng 5 về. Đại tá Lê Khắc Phấn mong rằng thế hệ trẻ hôm nay luôn nhớ đến quá khứ hùng tráng, anh dũng ấy của dân tộc Việt Nam, từ đó tiếp nối những truyền thống vẻ vang, xây dựng đất nước ngày càng hùng mạnh.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Trung sĩ Công an cứu người đuối nước, lan tỏa điều tốt đẹp trong cuộc sống

  Trung sĩ Công an cứu người đuối nước, lan tỏa điều tốt đẹp trong cuộc sống      Phát hiện 2 cháu bé đang chấp chới giữa dòng nước, không q...