29/12/21

“TIẾN SỸ MẤT DẠY” CHU MỘNG LONG

 Lần đầu được nghe khái niệm “tiến sỹ mất dạy” của diễn giả Lê Thẩm Dương thì ngỡ tưởng khi cao đàm khoát luận ông nói cho vui vậy, hóa ra có thật. Nó rất đúng với “tiến sỹ mất dạy” có cái tên đậm chất cải lương: Chu Mộng Long. Chắc cũng chả ai lạ gì Mộng Long nữa, y là một tiến sĩ ngữ văn nhưng lại liên tục “chửi đổng” chính quyền. Gần đây nhất là sờ tát tớt  thể hiện sự “dè bỉu” đúng chất mất dạy của mình trong bài viết tựa đề “Nổ nữa đi cho vui tai” vào ngày 30/11 vừa qua với nội dung bất hảo về việc tạm dừng thử nghiệm Vaccine Covid-19 của Việt Nam.

Được biết, chiều ngày 30/11 đại diện Viện Vaccine và Sinh phẩm y tế (IVAC), đơn vị nghiên cứu và phát triển vaccine Covivac thông tin sẽ tạm dừng thử nghiệm lâm sàng vaccine Covid-19 Việt Nam Covivac, do khó khăn trong việc tuyển tình nguyện viên đủ điều kiện.Theo đại diện IVAC cho biết, giai đoạn 3 của thử nghiệm lâm sàng vaccine Covivac, sẽ được triển khai vào tháng 12 với số lượng tình nguyện viên dự kiến là 4.000 người.Tuy nhiên, hiện nhóm nghiên cứu gặp khó khăn trong việc tìm được đủ tình nguyện viên đáp ứng các điều kiện vì "Tỷ lệ bao phủ vaccine Covid-19 ở nước ta rất cao. Do đó, chúng tôi gặp khó trong việc tuyển tình nguyện viên chưa tiêm vaccine Covid-19 và đáp ứng các tiêu chí khác của nghiên cứu. Các tình nguyện viên cũng phải theo cộng đồng, không thể tuyển mỗi nơi một ít".


Như vậy, dù là học sinh cũng hiểu rất rõ rằng:Mặc dù đã hết sức nỗ lực cố gắng để sớm có được loại vaccine chống Covid-19 do chính mình sản xuất nhưng do những điều kiện khách quan mà các nhà khoa học Việt Nam sản xuất COVIVAC tạm thời ngừng thử nghiệm. Đây là một bước đi kĩ lưỡng, cẩn trọng của những nhà khoa học Việt Nam, nhằm đưa vaccine chưa được kiểm nghiệm an toàn một cách toàn diện ra cộng đồng, đến với người dân, tuyệt đối không vì những lý do “bên ngoài” để “đốt cháy giai đoạn”, ảnh hưởng tới chất lượng kiểm nghiệm của vaccine. Ấy vậy nhưng, Chu Mộng Long thân là “tiến sĩ” nhưng lại cố tỏ ra  không hiểu, y đăng đàn ca thán, dè bỉu những nỗ lực của Nhà nước ta.

Phải chăng đó là khoái cảm của những kẻ bất lương với dân tộc như Chu Mộng Long vì chỉ có những kẻ ghen ghét, bon chen mới hả hê như vậy. Y chém gió tưng bừng đến mức xuyên tạc sự thật rằng: “báo chí và dư luận viên đã nổ hơn bom nguyên tử, rằng Việt Nam là “cường quốc sản xuất và xuất khẩu vaccine”. Phải chăng là do y khéo tưởng tượng ra  hay do  cái tầm “tiến sỹ mất dạy” nên đầu óc của y chỉ chứa những suy nghĩ cực đoan chứ tìm rất kỹ và đọc rất nhiều bài báo, cả lề phải lẫn lề trái, chưa có ai tự phong Việt Nam là “cường quốc sản xuất và xuất khẩu vaccine” cả.  Thời gian qua, Việt Nam hiện tham gia tích cực vào cơ chế COVAX toàn cầu và được phân bổ số lượng vaccine phòng chống Covid-19 phù hợp với điều kiện và tình hình dịch bệnh ở trong nước. Các đồng chí lãnh đạo  Đảng và Nhà nước ta đã rất tích cực, nhạy bén trong công tác “ngoại giao vaccine”. Nhờ thế người dân Việt Nam được sớm tiếp cận vaccine từ nhiều nguồn, đối tác khác nhau như Mỹ, Anh, Nga, Cuba, Trung Quốc. Vin vào đó, y nói Việt Nam phải “đi xin” vaccine từ Mỹ, Nga rồi phải nhập vaccine của Trung Quốc với những điều khoản hợp đồng “chết ai nấy chịu”. Đấy chỉ là luận điệu của những kẻ chống phá, chứ với trình độ tiến sỹ phải biết rằng vaccine là mặt hàng đặc biệt, các nhà sản xuất sẽ không bán cho tư nhân hay tổ chức mà chỉ phân phối qua kênh chính phủ đi kèm với đó là mỗi chính phủ được phân phối phải cam kết với nhà sản xuất về quyền miễn trừ trách nhiệm nếu có những biến chứng xảy ra khi tiêm chủng, đó là thông lệ chung của toàn thế giới.

Hiện nay, Nhà nước ta vẫn luôn nỗ lực để tự chủ nguồn vaccine phòng bệnh Covid-19, đây là quyết sách chiến lược trong phòng, chống dịch Covid-19 tại Việt Nam, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh có những diễn biến phức tạp và khó lường. Đây là công việc rất khó khăn, nhiều thử thách, nhưng khó đến mấy chúng ta cũng luôn có niềm tin và nỗ lực để biến mục đích đó thành hiện thực như thủ tướng Phạm Minh Chính đã nói “khó đến mấy cũng phải làm và có niềm tin sẽ làm được”, tất cả đều hướng tới mục tiêu là ức khỏe, tính mạng, sinh mệnh của nhân dân. Sẽ có những khó khăn, thậm chí những thất bại tạm thời như trường hợp của COVIVAC nhưng càng có thêm động lực phấn đấu, vươn lên, khẳng định và trưởng thành, biến khó thành dễ, biến không thể thành có thể…

Những lý lẽ sằng bậy, xuyên tạc như của Chu Mộng Long chẳng bao giờ làm chúng ta lùi bước. Việt Nam quyết tâm đẩy lùi dịch bệnh bằng sự đoàn kết, đồng lòng và nỗ lực của các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân; sẽ chẳng ai thèm để ý những lời châm chích của lũ ruồi nhặng tự khoác cái lốt “dân chủ” trên mình như của y. Và rồi, luật nhân quả chả trừ một ai, những kẻ như Chu Mộng Long sẽ bị đẩy ra bên lề, bị lên án vì những lời nói hèn hạ thể hiện tâm tính cực đoan, chống đối của chính mình.

KHÓC THUÊ, LIỆU CÓ ÍCH GÌ

 Sau khi phiên tòa phúc thẩm đối với 2 bị cáo - 2 trùm dân oan là Cấn Thị Thêu và Trịnh Bá Tư diễn ra vào hôm 24/12 vừa qua, một số đối tượng trong nước đã đăng tải nhiều bài viết trên các trang mạng xã hội xuyên tạc trắng trợn về vụ việc này. 

Tại phiên tòa phúc thẩm, chủ tọa đã tuyên phạt y án sơ thẩm với mỗi người 08 năm tù giam, 03 năm quản chế sau khi thực hiện xong bản án phạt tù về tội danh “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” theo quy định tại Điều 117-Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với Cấn Thị Thêu và Trịnh Bá Tư. Sẽ không có gì đáng nói nếu như một số linh mục, tín hữu thông qua các hội nhóm tôn giáo đăng đàn "khóc thuê" cho các đối tượng trên. 


Đây là điều khiến nhiều người tỏ ra bất ngờ. Họ thắc mắc rằng, không biết từ bao giờ những người công giáo lại đi cổ xúy cho các đối tượng vi phạm pháp luật. Rõ ràng mẹ con Cấn Thị Thêu là lương dân, hoàn toàn không có mối quan hệ nào với công giáo và giáo dân, ấy vậy mà một số tay cha xứ lại coi mẹ con Thêu là "người hùng" khi dám đứng trước vành móng ngựa hô to khẩu hiệu "đả đảo Đảng Cộng sản".

Có vẻ như bộ mặt giả trân của một số kẻ mượn tay tôn giáo làm càn đã dần lộ diện khi chúng thể hiện thái độ bênh vực các đối tượng chống đối, vi phạm pháp luật như mẹ con Cấn Thị Thêu một cách công khai. Trước đây, tại giáo xứ Thái Hà, đã không ít lần trong các buổi Thánh lễ cầu nguyện, các Cha xứ nơi đây cũng đã cho phép sự hiện diện của mẹ con Cấn Thị Thêu và thậm chí khi Cấn Thị Thêu bị bắt hay bị tuyên phạt tại phiên tòa sơ thẩm vào ngày 05/5/2021 thì linh mục Nguyễn Ngọc Nam Phong đã tổ chức cầu nguyện cho gia đình của Cấn Thị Thêu với sự tham gia của nhiều cộng đoàn, tín hữu. 

Về lý lịch trích ngang của tiền án, tiền sự của mẹ con Cấn Thị Thêu thì chuẩn không có gì ngoài tiền án, tiền sự vì những hành vi chống phá chính quyền. Nói một cách chính xác, các đối tượng này là những kẻ hành nghề dân chủ, được cộng đồng dân chủ Việt phong cho biệt danh "thánh dân oan". Cấn Thị Thêu (15 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ” vào năm 2014 và 1 năm 8 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” vào năm 2016) và Trịnh Bá Tư, Trịnh Bá Phương (người vừa bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội tuyên phạt 10 năm tù giam, 5 năm quản chế vào ngày 15/12/2021) trong những vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự trong thời gian qua với vai trò là những “dân oan”, những người “yêu nước”, “đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền”…

Thường thì đến các phiên phúc thẩm, quan tòa sẽ xem xét các hành vi, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ hình phạt đối với các bị cáo. Với trường hợp của bị cáo Thêu và Tư bản án y án sơ thẩm với mỗi người 08 năm tù giam, 03 năm quản chế là hoàn toàn xác đáng. Các bị cáo trên đều có tư tưởng bất mãn, tiêu cực với các tiền án, tiền sự. Dưới sự kích động, hậu thuẫn của các cá nhân, tổ chức chống phá từ bên ngoài, Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Tư đã sử dụng tài khoản Facebook cá nhân để phát các video trực tiếp có nội dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân; bịa đặt gây hoang mang trong Nhân dân và tạo điều kiện để các đối tượng có tư tưởng chống chế độ, chống Nhà nước theo dõi, bình luận bôi nhọ, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền, bịa đặt gây tư tưởng hoang mang trong Nhân dân nhằm chống Đảng, Nhà nước. Đặc biệt, trong vụ việc giết người, chống người thi hành công vụ tại Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà Nội, mẹ con Cấn Thị Thêu là một trong các đối tượng thể hiện thái độ chống phá cực đoan nhất khi thường xuyên đăng tải các bài viết, livestream xuyên tạc việc cơ quan chức năng thu hồi khu đất đồng Sênh cũng như hành vi giết người, chống người thi hành công vụ của cha con đối tượng Lê Đình Kình.

Với những hành vi vi phạm pháp luật của mình, Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Tư hoàn toàn xứng đáng với bản án trên, các cha xứ, tín hữu công giáo hãy dừng ngay việc ăn nói hàm hồ trên mạng xã hội nếu không muốn bị coi là đồng lõa, cổ xúy cho các đối tượng trên. Khóc thuê nào có ích gì!

TRÁI CÂY TẮC NGHẼN VÀ CÁCH NHÌN THIỂN CẬN CỦA VIỆT TÂN

 Những ngày qua, Trung Quốc tạm ngừng thông quan tại các cửa khẩu Tân Thanh, Hữu Nghị, Chi Ma của tỉnh Lạng Sơn, Móng Cái của tỉnh Quảng Ninh đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh tế, nhất là những người nông dân có nông sản nước ta.

Như một thói quen, trước những sự việc như vậy, đã không giúp đỡ gì được nhân dân thì chớ, bè lũ Việt Tân lại lấy cớ ngoác mồm vu cáo chính quyền. Bằng chứng là ngày 21/12 trên trang Việt Tân có đăng một bài viết “cũn cỡn” thể hiện sự ngu học của lũ dân chủ dởm đời: “Không thấy bộ, ngành nào lên tiếng cho dân…. Bỏ mặc dân tự lo liệu, tự chịu khổ, cái khổ mà đáng lẽ ra ở các nước khác chính quyền đã nhảy vào can thiệp giúp dân”. Kèm theo đó là đoạn clip quay cảnh mít – mặt hàng nông sản Việt Nam xuất bán sang Trung Quốc, bày la liệt, bán tháo tại các chợ tạm một số cửa khẩu biên giới phía Bắc, giáp Trung Quốc, nhằm gỡ gạc chút vốn liếng trước khi vứt bỏ.

          Khốn nạn hơn, cuối bài, Việt Tân (và Hạ Lan- kẻ đăng tin) vin vào đó để  xuyên tạc lãnh đạo Việt Nam đã không làm gì, “bỏ mặc dân tự lo liệu…”  với lời bình rằng: “Cứ nhìn tấm gương bà TT Thái Anh Văn giải cứu dứa cho dân mà cảm phục. Các lãnh đạo CSVN chỉ đáng xách dép cho bà!”.


          Như chúng ta đã biết, thị trường Trung Quốc đang ngày càng khó tính trong việc kiểm soát hàng hóa vào thị trường nội địa. Ngoài việc ban hành Lệnh 248, Lệnh 249 tiếp tục thực hiện chặt các quy định về truy xuất về nguồn gốc, mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói, ghi nhãn, cũng như các yêu cầu khác liên quan. Đặc biệt, trước diễn biến khó lường của đại dịch Covid- 19, Trung Quốc tiếp tục theo đuổi chính sách “Zero COVID”, nhằm hạn chế sự lây lan của dịch Covid-19, mặc dù các biện pháp này có thể ảnh hưởng đến kinh tế của cả Trung Quốc và các quốc gia lân cận. Những biện pháp kiểm soát càng nghiêm ngặt hơn khi tối ngày 17/12, một lái xe chở hàng Việt Nam có kết quả kết quả dương tính với SARS-CoV-2…

          Trước những khó khăn và hoàn cảnh ngặt nghèo đó, ngày 18/12, Phó thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành đã yêu cầu các Bộ Công thương, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Tài chính, Ngoại giao, Giao thông vận tải, Y tế, UBND các tỉnh thành căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao tiếp tục thực hiện nghiêm túc, đầy đủ ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc thúc đẩy sản xuất, lưu thông, tiêu thụ và xuất khẩu nông sản trong bối cảnh phòng, chống dịch bệnh COVID-19; đồng thời yêu cầu Bộ Công thương tiếp tục đàm phán, kiến nghị các bộ, ngành và chính quyền địa phương phía Trung Quốc tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động thông quan và xuất khẩu hàng hóa, đặc biệt là hàng nông sản của Việt Nam… Các Bộ, ban, ngành liên quan cũng đã tích cực triển khai các biện pháp để nhanh chóng tháo gỡ khó khăn.

Những nỗ lực của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương Việt Nam bước đầu đã nhận được phản hồi của phía Trung Quốc. Ông Hồ Tỏa Cẩm, Tham tán thương mại Trung Quốc tại Việt Nam thông tin rằng hiện Tổng cục Hải quan Trung Quốc cũng rất lưu ý đến việc nhập khẩu nông sản từ Việt Nam, yêu cầu các cơ quan có liên quan, các địa phương tại Trung Quốc khẩn trương tìm giải pháp tháo gỡ

Trước những khó khăn thời dịch bệnh, những hình ảnh về các mặt hàng nông sản chưa thể xuất sang biên giới, hàng nghìn container ùn ứ chờ thông quan không khỏi làm mỗi chúng ta lo lắng và đau lòng. Nhưng để giải quyết tình trạng này không thể chỉ ngày một ngày hai, nhất là trong bối cảnh toàn cầu đang hết sức lo ngại về làn sóng dịch mới của biến chủng Omicron.

Trước những khó khăn của đất nước, nhân dân, một lời nói chia sẻ, thể hiện sự quan tâm, lo lắng chân thành là sự động viên quý giá hơn cả. Nhưng nhân lợi dụng xem đó để để xuyên tạc, vu khống chính quyền như Lan Hạ, Việt Tân thì đích thị là kẻ phản phúc, mất dạy, đáng bị lên án.

Tìm đâu thuốc chữa “bệnh phản động” cho mẹ con Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Tư?

 Phiên tòa phúc thẩm 2 bị cáo Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Tư hôm 24/12 tại Hòa Bình kết thúc, Hội đồng xét xử công bố bản án tuyên y án sơ thẩm với hình thức phạt mỗi người 8 năm tù giam và 3 năm quản chế cho Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Tư. Kết quả phiên tòa chắc có lẽ Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Tư và cả đám luật sư khóc thuê cho 2 bị cáo cũng đã biết không thể thay đổi được gì ngay khi tòa sơ thẩm kết thúc, nhưng họ vẫn cứ nộp đơn kháng cáo kêu oan, sử dụng hết quyền bị cáo của mình, để rồi ra tòa phúc thẩm diễn vở kịch khác.



Kịch mà mẹ con Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Tư là những diễn viên chính ở đây chính được các luật sư, đại diện cho họ miêu tả trên bài viết đăng tải trên trang cá nhân của mình nhấn mạnh Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Tư hô to “Đả đảo cộng sản”. Đấy là chi tiết đắt nhất mà theo đám luật sư bào chữa muốn phô với bàn dân thiên hạ. Đám anh em dân chủ, đài báo phản động đang loan tin, thể hiện sự “tự hào”, vì trong đám dận chủ đã có người “anh hùng” đến phút cuối sau khi bản án được tuyên, mẹ con bị cáo vẫn giữ tiết “phản động” đến thế, nhiều kẻ rận chủ cho rằng thế mới xứng đáng với chủ nhân của giải thưởng nhân quyền năm 2021 vừa được tổ chức thuộc “liên minh phản động lưu vong” có trụ sở tại California, Mỹ đề cử và trao giải.

Càng được đám rận chủ, phản động trong và ngoài nước tung hê mẹ con nhà cám bao nhiêu thì bộ mặt phản động của mẹ con nhà ý lại lộ rõ bấy nhiêu. Từ trước tới giờ mẹ con nhà Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Phương, Trịnh Bá Tư luôn nhận mình là người nông dân mất đất, “dân oan” chứ không phải phản động chống chính quyền gì cả, các hành vi gây rối mất trật tự, vi phạm pháp luật, chống phá nhà nước của họ vẫn luôn lấy danh nghĩa mục đích đấu tranh đòi lại đất mà thành. Trong khi đó vườn tược, đất trồng cây trên Yên Thủy, Hòa Bình cơ bản là rất nhiều, cả nhà Cấn Thị Thêu trồng bưởi bán vẫn còn làm chưa hết đất, vậy Cấn Thị Thêu tính riêng vẫn còn lồng lộn “hoạt động” để nhận về 3 bản án tù. Tổng hợp thời gian bóc lịch trong nhà đá của gia đình này nhiều vậy lấy đâu thời gian lao động trên đất nữa, vậy đòi đất để có tư liệu sản xuất thì ít mà dùng chiêu bài “đòi đất để hoạt động rận chủ, phản động mới là chính. Với những biểu hiện gây mất trật tự tại phiên tòa bằng những lời nói thể hiện chống chế độ, rồi lại vu vạ bản thân là nạn nhân của chế độ, Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Tư đã hiện nguyên hình đích xác là những tên phản động chính hiệu. Bản án 16 năm tù, 6 năm quản chế có vẻ quá nhẹ nhàng đối với mẹ con nhà này.

Ngay tại phiên tòa xét xử các hành vi vi phạm pháp luật của mình, trước sự nghiêm minh của pháp luật, Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Tư đành phải tháo chiếc mặt nạ đeo trên mình bao lâu, lộ rõ bộ mặt phản động của mình và tranh thủ kêu gào chống Nhà nước, chống chế độ để thu hút sự chú ý của đám rận chủ, phản động trong và ngoài nước, có lẽ làm vậy mới chứng minh được họ vẫn còn giá trị để lợi dụng, không để đám rận chủ sẽ lãng quên nhanh như những rận chủ đình đám khác.

17/12/21

LẠI TUNG HỎA MÙ SAU PHIÊN TÒA XÉT XỬ PHẠM THỊ ĐOAN TRANG

Ngày 14/12, TAND TP Hà Nội đã mở phiên tòa hình sự xét xử sơ thẩm bị cáo Phạm Thị Đoan Trang (SN 1978, trú tại quận Đống Đa, Hà Nội) về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”.

Trước, trong và sau thời điểm diễn ra phiên tòa, một số cá nhân, tổ chức chống phá ngoài nước kêu gọi Nhà nước Việt Nam phải trả tự do cho Phạm Thị Đoan Trang, đồng thời vu cáo Việt Nam đàn áp những người “bất đồng chính kiến”, nhà “đấu tranh dân chủ”, “hoạt động nhân quyền”. Đây rõ ràng là những luận điệu xuyên tạc nhằm cổ súy cho hành vi vi phạm pháp luật của Phạm Thị Đoan Trang và các đối tượng chống đối khác.

Karin Deutsch Karlekar, Giám đốc Chương trình Tự do bày tỏ trước rủi ro tại “Tổ chức Văn bút Mỹ” (PEN) đã đưa ra những luận điệu xuyên tạc rằng: "Cộng đồng quốc tế đã nói rõ rằng việc giam giữ Phạm Thị Đoan Trang đang diễn ra là không thể chấp nhận được". Không những vậy, người này còn đưa ra những luận điệu xuyên tạc, vu cáo trắng trợn tình hình Việt Nam: "Với sự coi thường luật pháp quốc tế một cách trắng trợn, chính phủ Việt Nam vẫn tiếp tục cố gắng trừng trị bà vì tội viết lách ôn hòa và vận động cho nhân quyền. Thật không may, việc giam giữ Trang chỉ là một trong nhiều vụ án hình sự có động cơ chính trị chống lại các nhà báo và những người bảo vệ nhân quyền, cho thấy sự thất bại có tính hệ thống của chính phủ Việt Nam trong việc duy trì quyền tự do ngôn luận và các quyền cơ bản khác".

Cổ súy cho những luận điệu trên, Tổ chức Theo dõi nhân quyền thế giới (HRW) cố tình xuyên tạc “chính quyền Việt Nam cần gỡ bỏ mọi cáo buộc mang tính chất chính trị và trả tự do ngay lập tức cho Phạm Thị Đoan Trang”. Trong khi đó, một nhóm có tên là “Nhóm công tác của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc về giam giữ tùy tiện” công bố bản “thông cáo kết luận việc chính quyền bắt giam Phạm Thị Đoan Trang” với những lập luận suy diễn, vô căn cứ. Bản “thông cáo” của nhóm này viết: “Suốt từ khi bị bắt, bà Trang không được gặp người thân và việc bà gặp luật sư bị đình trệ rất lâu. Do đó, các quyền của bà Trang theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) đã bị vi phạm”. Đồng thời, nhóm này cũng kêu gọi chính quyền Việt Nam “trả tự do ngay lập tức cho Phạm Thị Đoan Trang”.

Trước đó, từ tháng 11/2021, “Luật Khoa tạp chí” cùng “The Vietnamese Magazine” và “The 88 Project” đã phát động một chiến dịch viết thư gửi cho Phạm Thị Đoan Trang, với những nội dung đại ý rằng, Phạm Thị Đoan Trang là một nhà báo chân chính, dám đi ngược với số đông để nói lên sự thật và “ánh sáng của tự do từ những quan điểm của Phạm Thị Đoan Trang sẽ luôn soi rọi đến bất cứ nơi nào có tăm tối, bất công”.

Phạm Thị Đoan Trang không còn là cái tên xa lạ với nhiều người. Được biết đến là một người có tư tưởng, hành vi chống đối quyết liệt, Phạm Thị Đoan Trang là tác giả của nhiều cuốn sách có nội dung hướng dẫn, kích động các hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân như “Chính trị bình dân”, “Cẩm nang nuôi tù”, “Phản kháng phi bạo lực”… Theo hồ sơ vụ án, Phạm Thị Đoan Trang từng tốt nghiệp trường Hà Nội - Amsterdam và Khoa Kinh tế, Đại học Ngoại thương Hà Nội. Sau khi ra trường, Trang làm phóng viên cho báo điện tử Vnexpress trong 2 năm, sau đó làm nhân viên Công ty quảng cáo HAKI, nhân viên Công ty Truyền hình kỹ thuật số VTC, cộng tác viên báo Vietnamnet và có gần 3 năm làm phóng viên báo Pháp luật TP Hồ Chí Minh. Năm 2013, do xuất cảnh đi nước ngoài không xin phép nên Trang đã bị cơ quan chủ quản kỷ luật buộc thôi việc.

Trong chuyến xuất cảnh trái phép này, Trang đã bị một số đối tượng chống đối chính quyền dẫn dắt, móc nối, lôi kéo. Trở về nước, Trang trực tiếp thành lập và tham gia điều hành nhiều hội, nhóm bất hợp pháp, đồng thời, đứng sau lôi kéo lập nhóm “Du ca Sài Gòn”, “Tuổi trẻ làm đẹp quê hương”, tụ tập, khuếch trương lực lượng chống đối trong nước, tập hợp lực lượng chống đối trong giới văn nghệ sĩ, trí thức trẻ. Đoan Trang cũng lập và điều hành các trang mạng “Luật khoa tạp chí”, “Phamdoantrang.com”, “The Vietnamese”, viết, tán phát nhiều bài viết, cuốn sách có nội dung tuyên truyền xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, kích động lật đổ chế độ.

Cũng theo hồ sơ vụ án, Phạm Thị Đoan Trang là thành viên cốt cán của Tổ chức VOICE và được số đối tượng cầm đầu tổ chức này giao phụ trách nhân sự, trực tiếp tuyển lựa, duyệt người trước khi đưa ra nước ngoài để huấn luyện, đào tạo cách thức hoạt động chống phá chính quyền. Trang cũng là một trong những người sáng lập và duy trì hoạt động của Nhà xuất bản Tự do - một tổ chức dân sự trá hình, hoạt động “chui”, chuyên xuất bản, in ấn và phát hành các ấn phẩm có nội dung tiêu cực, xuyên tạc, kích động bạo lực, chống phá Đảng, Nhà nước.

Theo cáo trạng, từ ngày 16/11/2017 đến 5/12/2018, Phạm Thị Đoan Trang có hành vi làm ra, tàng trữ, lưu hành nhiều tài liệu, bài viết có nội dung nhằm chống phá Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Cụ thể, Trang có hành vi tàng trữ các tài liệu như: "Báo cáo tóm tắt về thảm họa môi trường biển Việt Nam"; "Đánh giá chung về tình hình nhân quyền tại Việt Nam"; "Báo cáo đánh giá về luật tôn giáo và tín ngưỡng năm 2016 liên quan đến việc thực hiện quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng ở Việt Nam"... Đây là những tài liệu có nội dung tuyên truyền luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân, tuyên truyền thông tin xuyên tạc đường lối, chính sách pháp luật của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

Quá trình làm việc với Cơ quan điều tra, Trang xác nhận mình là tác giả của báo cáo nghiên cứu về luật tín ngưỡng, tôn giáo. Trang cùng nhóm tác giả viết báo cáo này bằng tiếng Anh, sau đó dịch ra tiếng Việt và đăng tải trên trang điện tử do mình lập ra. Nhiều lần trả lời phỏng vấn đài nước ngoài như BBC News tiếng Việt và Đài Á Châu tự do (RFA), Trang đã có phát ngôn tuyên truyền các nội dung thông tin xuyên tạc đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.

Cáo trạng khẳng định, Phạm Thị Đoan Trang phải chịu trách nhiệm hình sự vì nhiều lần thực hiện hành vi làm ra, tàng trữ và lưu hành các tài liệu có nội dung nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ, HĐXX nhận định, hành vi tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, phỉ báng chính quyền nhân dân của Phạm Thị Đoan Trang là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với mục đích cố ý xâm phạm chế độ XHCN và Nhà nước trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, xã hội, đối ngoại, xâm phạm đến sự vững mạnh của chính quyền nhân dân. Bị cáo là người có trình độ nhận thức nhất định, hiểu và biết rõ hậu quả hành vi, tuy nhiên vẫn tích cực thực hiện trong thời gian dài.

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không khai báo thành khẩn, phạm tội nhiều lần, cần thiết xử phạt nghiêm minh. HĐXX đã tuyên phạt Phạm Thị Đoan Trang 9 năm tù về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” quy định tại Điều 88, BLHS năm 1999.

Bản thân Phạm Thị Đoan Trang là người có nhận thức, hiểu biết, từng công tác tại một số cơ quan báo chí nhưng lại vi phạm pháp luật thời gian dài, có tư tưởng chống đối sâu sắc, hoạt động chống phá chính quyền nhân dân quyết liệt. Việc Phạm Thị Đoan Trang chịu án phạt tù là lẽ hiển nhiên. Ấy thế nhưng, một số cá nhân, tổ chức lại đăng tải những thông tin, luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ, vu cáo Việt Nam.

Đưa những luận điệu sai trái trên, các cá nhân, tổ chức chống phá trước hết nhằm xuyên tạc bản chất của vụ án, xuyên tạc quá trình điều tra, truy tố, xét xử Phạm Thị Đoan Trang. Đồng thời, lấy cớ vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp những người “bất đồng chính kiến”, những người “hoạt động nhân quyền”. Cũng như những đối tượng phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia, các cá nhân, tổ chức thù địch mượn cớ vụ án nhằm gây sức ép, bôi nhọ, làm mất uy tín, hình ảnh của Việt Nam với quốc tế, từ đó can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.

Mặt khác, thông qua những luận điệu này, các cá nhân, tổ chức trên còn muốn đánh bóng tên tuổi Phạm Thị Đoan Trang cũng như các cá nhân hoạt động chống Đảng, Nhà nước dưới danh nghĩa “nhà dân chủ”, nhà “hoạt động nhân quyền”, từ đó cổ súy cho hành vi phạm pháp của các nhân tố chống đối trong nước, tập hợp lực lượng, gây bất ổn từ bên trong.  Thủ đoạn trên tuy không mới nhưng lại hết sức nguy hiểm bởi nó có thể hướng lái sự chú ý của dư luận quốc tế và làm cho một số người hiểu sai sự thật, thậm chí một số cá nhân vì thiếu hiểu biết mà tin theo, bị dẫn dắt hoặc vì động cơ khác mà dẫn đến hành vi sai trái, chống phá đất nước, đi ngược lại với lợi ích quốc gia.

THỦ TƯỚNG: LỢI ÍCH QUỐC GIA LÀ TỐI THƯỢNG, ĐỘC LẬP CHỦ QUYỀN LÀ BẤT BIẾN

 "Lợi ích quốc gia là tối thượng, độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, quyền và lợi ích hợp pháp là bất biến. Phương châm là cương quyết nhưng kiên định, mềm mại, linh hoạt, hiệu quả" - Thủ tướng nói.

Sáng 15/12, Hội nghị Ngoại giao lần thứ 31 diễn ra tại Hà Nội với chủ đề "Ngoại giao Việt Nam tiên phong, toàn diện, hiện đại, chủ động thích ứng, thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội XIII của Đảng". Thủ tướng Phạm Minh Chính đã tới dự và chỉ đạo hội nghị.

"Ta bảo vệ lợi ích chính đáng của người khác, lúc cần họ mới bảo vệ ta"
Thủ tướng ghi nhận những kết quả xuất sắc của ngành ngoại giao, quyết tâm đổi mới, đóng góp tích cực, có trách nhiệm vào các vấn đề và diễn đàn quốc tế quan trọng, đặc biệt là đã hoàn thành tốt trọng trách Chủ tịch ASEAN 2020 và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021, qua đó nâng cao vị thế, uy tín của đất nước ta trên trường quốc tế.
Thủ tướng Phạm Minh Chính đặc biệt đánh giá cao về chiến lược ngoại giao vaccine. "Khi Chính phủ thành lập Tổ ngoại giao vaccine và giao cho Bộ trưởng Ngoại giao làm tổ trưởng, thông qua đường ngoại giao đạt được kết quả quan trọng về vaccine, thiết bị y tế. Việt Nam là một trong những nước tiêm chủng nhanh nhất thế giới" - Thủ tướng nói và cho biết hiện nay chúng ta mới làm chủ được vaccine, tự tin để tiến hành các thay đổi trạng thái từ "zero Covid" sang thích ứng an toàn linh hoạt và kiểm soát hiệu quả để tiếp tục khôi phục phát triển kinh tế - xã hội.
Định hướng cho hai năm tới, Thủ tướng cho rằng cần dự báo tình hình, đánh giá những việc đã làm được và chưa làm được để định hình công tác đối ngoại cho phù hợp. Lưu ý đến các vấn đề như cạnh tranh chiến lược, tình hình Biển Đông, Thủ tướng cho rằng vừa có thách thức vừa có cơ hội nên cách ứng xử, hoạt động ngoại giao thế nào để hóa giải được những thách thức, tận dụng thời cơ để phát triển.
Về Covid-19, Thủ tướng cho biết đây là vấn đề toàn cầu nên cần chung tay, chung sức thì phải giải quyết. Không một quốc gia nào bình yên khi các quốc gia có dịch, không một công dân nào an toàn nếu công dân khác mắc Covid-19. Thủ tướng cũng nhắc tới các vấn đề nóng như biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên, cách mạng công nghiệp 4.0, già hóa dân số, khủng hoảng thị trường lao động….
Thủ tướng dẫn lại tinh thần của Hội nghị đối ngoại toàn quốc lần đầu tiên tổ chức 14/12, hội nghị khẳng định lại vai trò vị trí, tầm quan trọng của Việt Nam, của nền ngoại giao, khẳng định được những nền tảng quan trọng, những quan điểm rất cơ bản để phát triển ngành ngoại giao phục vụ lợi ích quốc gia dân tộc tối thượng.
"Phục vụ lợi ích quốc gia dân tộc là tối thượng nhưng cũng phải nhân ái, là thành viên có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế chứ không phải chỉ mình mình được" - Thủ tướng nói và nhấn mạnh "bây giờ không thể sống mình mình được, cái gì là cốt lõi, cái gì là ứng vạn biến, cốt lõi lợi ích quốc gia dân tộc, quyền lợi chính đáng của chúng ta, chúng ta bảo vệ, nhưng chúng ta cũng phải góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của người khác. Ta bảo vệ lợi ích chính đáng của người khác thì lúc cần thì họ mới bảo vệ ta".
Người đứng đầu Chính phủ cũng nêu rõ phương châm với ngành ngoại giao: "Phải tình cảm, chân thành, tin cậy, bình đẳng, tôn trọng, hiệu quả và cùng phát triển". Theo Thủ tướng, con người ai cũng có tình cảm, mình phải đánh sâu vào tình cảm. Phải chân thành, trong đối ngoại phải rất chân thành, từ tấm lòng của mình, tốt thì nói tốt, không nói thì nói không tốt… Đó là về vấn đề nhận thức, đấu tranh trong hoạt động ngoại giao.
"Đổi mới tư duy, với lợi ích quốc gia tối thượng, độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, quyền và lợi ích hợp pháp là bất biến, chú ý đề cao chủ nghĩa đa phương. Phương châm là cương quyết nhưng kiên định, mềm mại, linh hoạt, hiệu quả. Những gì vấn đề bất di, bất dịch chúng ta phải cương quyết" - Thủ tướng khẳng định.
3 trụ cột quan trọng
Với những thành quả của 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, lịch sử, chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Việt Nam từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu, trải qua những khó khăn của chiến tranh, bao vây cấm vận, phải hoạt động dựa vào viện trợ quốc tế, thì ngày nay đã trở thành nước có nền kinh tế năng động nhất Đông Nam Á.
Thủ tướng cho rằng, Hội nghị Đối ngoại toàn quốc ngày 14/12 đã khẳng định vai trò, vị trí, tầm quan trọng của đối ngoại, khẳng định những nền tảng quan trọng, quan điểm cơ bản để phát triển ngành ngoại giao phục vụ lợi ích quốc gia dân tộc tối thượng, nhân ái, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Về 3 trụ cột ngoại giao, Thủ tướng Chính phủ cho rằng, về ngoại giao chính trị, Việt Nam cần kiên trì đường lối ngoại giao độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn tốt, là đối tác tin cậy với các nước và là thành viên có trách nhiệm, tích cực chủ động hội nhập quốc tế, vì hòa bình, hợp tác và phát triển.
Thủ tướng cho rằng, công tác đối ngoại cần xây dựng hình ảnh tình cảm, chân thành và tin cậy với bạn bè quốc tế và các doanh nghiệp, tuân thủ tinh thần lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ, làm cho họ hiểu về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, đáp ứng xu thế của thời đại là hòa bình, hợp tác và phát triển.
Về ngoại giao kinh tế, Thủ tướng nhấn mạnh cần chú trọng hơn vào cải thiện thể chế, đào tạo nguồn nhân lực, đẩy mạnh phát triển công nghệ xanh, tài chính xanh, học tập thêm kinh nghiệm quản trị quốc gia, thúc đẩy hệ sinh thái sáng tạo và khởi nghiệp; tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA), góp phần cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy liên kết xuất nhập khẩu, tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu, đóng góp giải quyết các vấn đề toàn cầu, an ninh phi truyền thống.
Về ngoại giao văn hóa, theo Thủ tướng, ngành ngoại giao cần triển khai những mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp mà Đại hội Đảng lần thứ XIII đã nêu, nhất là Hội nghị Văn hóa Toàn quốc vừa qua, đặt ngoại giao văn hóa ngang tầm với chính trị và kinh tế, với sự đầu tư về nguồn lực cả về tài chính lẫn con người, đặc biệt là khi dư địa cho công tác ngoại giao văn hóa còn nhiều.
Về xây dựng ngành, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng: "Cán bộ ngoại giao cần nhạy bén về chính trị, nhạy cảm về kinh tế và sâu sắc về khoa học công nghệ". Cán bộ ngoại giao cần có tư duy, phương pháp luận để đi vào tìm hiểu chiều sâu về các lĩnh vực, hướng tới xây dựng một nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, nhân ái, thủy chung và linh hoạt, sáng tạo nhưng cũng quật cường và kiên quyết khi cần thiết.
Châu Như Quỳnh - Dân trí

XUYÊN TẠC PHẨM CHẤT TRUNG THÀNH CỦA QUÂN ĐỘI - TRÒ “BÌNH MỚI, RƯỢU CŨ” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 Như một thông lệ, cứ vào dịp kỷ niệm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị lại ra sức “tấu” những điệp khúc xuyên tạc quen thuộc, hòng chia rẽ, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, thúc đẩy “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang. Bởi vậy, cảnh giác, nhận rõ và chủ động đấu tranh, bác bỏ các luận điệu, chiêu trò đó là vấn đề quan trọng, cấp thiết.

Vẫn luận điệu cũ, họ tiếp tục rêu rao rằng: “Quân đội không cần trung thành với Đảng, chỉ cần trung thành với Tổ quốc và Nhân dân”. Thực chất luận điểm trên của các thế lực thù địch không có gì mới trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Nó vẫn nằm trong mục tiêu hòng “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam, phủ nhận phẩm chất trung thành của Quân đội ta, đưa Quân đội vào trung lập hóa, mất phương hướng chính trị, xa rời mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, phai nhạt bản chất giai cấp công nhân, dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, mất sức chiến đấu. Cần khẳng định rõ: đây là luận điểm lố bịch về khoa học - trò hề trong trò chơi chính trị của các thế lực thù địch. Do đó, cần vạch rõ tính chất phản khoa học, phản động của luận điểm trên.
Về hình thức ngôn ngữ thì loại luận điểm trên, nếu nghe qua dễ làm cho người ta cảm thấy chưa có vấn đề gì, thậm chí không ít người còn gật gù chấp nhận. Vì, nó cũng bàn đến phẩm chất trung thành của Quân đội, nhất là sự trung thành với Tổ quốc, với Nhân dân. Nhưng suy xét một cách kỹ lưỡng chúng ta thấy, ẩn chứa sau đó là âm mưu chống phá rất thâm độc của các thế lực thù địch trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Bởi, cách họ không bao giờ công khai lập trường, quan điểm phản động, mà dùng lối cắt xén từ ngữ, đánh tráo khái niệm trong thuật ngụy biện để che đậy bản chất chống phá một cách tinh vi. Thuật ngụy biện cũng để ý tới các mặt, những mối liên hệ khác nhau của sự vật, nhưng lại đưa cái không cơ bản thành cái cơ bản, cái không bản chất thành cái bản chất và ngược lại. Trên thực tế, với thủ đoạn tinh vi, họ đã nhiều lần dùng thuật ngụy biện để xuyên tạc bản chất, phủ nhận giá trị khoa học chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối, quan điểm của Đảng. Song, những việc làm đó của họ khó đánh lừa được dư luận và sẽ chịu thất bại.
Trong luận điểm: Quân đội không cần trung thành với Đảng, chỉ cần trung thành với Tổ quốc và Nhân dân thuật ngụy biện đã tái hiện lại sự cắt xén từ ngữ, đánh tráo khái niệm để biến cái không cơ bản thành cái cơ bản, cái không bản chất thành cái bản chất. Về thực chất là họ phủ nhận phẩm chất trung thành của Quân đội ta đã được hình thành, tôi luyện, củng cố ngay từ khi thành lập đến nay. Họ cắt xén nội dung: phẩm chất trung thành tuyệt đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam làm cho nội hàm của khái niệm phẩm chất trung thành bị biến dạng hoàn toàn về bản chất. Tách và bỏ nội dung trung thành tuyệt đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một sự xuyên tạc trắng trợn, nhằm chống phá Quân đội ta. Ở đây, diễn đạt đầy đủ và đúng đắn phải là: Quân đội nhân dân Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trung thành với mục tiêu bảo vệ cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Điều này được hiến định rõ tại Điều 65, Chương IV, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013: Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Do đó, việc họ tách và bỏ một nội dung có tính đặc trưng quan trọng nhất là trung thành tuyệt đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ra khỏi khái niệm phẩm chất “trung thành” của Quân đội là cắt xén nội dung, xuyên tạc bản chất một cách trắng trợn. Đó là biểu hiện của sự tùy tiện, chủ quan, phi lôgíc mà thuật ngụy biện thường dùng. Họ chỉ dùng nội dung phẩm chất trung thành với Tổ quốc, với Nhân dân nhằm hướng nhận thức của mọi người vào cái chung chung “lửng lơ”, mà không đi đến gốc rễ của vấn đề. Mục đích của họ là để dẫn mọi người đến nhầm lẫn, hòa tan giữa Tổ quốc mang bản chất của giai cấp tư sản và Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mang bản chất giai cấp công nhân là một. Và, từ đó sẽ dẫn tới Quân đội ta mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu. Đây là sự xảo trá, hết sức thâm độc của các thế lực thù địch, nhằm tách bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội ta. Vấn đề này đã được C.Mác - Ph. Ăngghen chỉ rõ: dưới chế độ bóc lột “công nhân không có tổ quốc”1. Vì thế, quần chúng nhân dân không việc gì phải hy sinh xương máu cho cái “Tổ quốc” của giai cấp tư sản. Như vậy, nếu cụ thể vào luận điểm, chỉ trung thành với Tổ quốc, với nhân dân “trần trụi” như thế thì rõ ràng đó là một hình thức đánh lừa quần chúng nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta hiện nay.
Về nội dung, điều đặc biệt nguy hiểm là các thế lực thù địch đã tách, bỏ nội dung trung thành tuyệt đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì nội dung này là cái quyết định nhất đến cái tổng thể của khái niệm trung thành. Trung thành với sự lãnh đạo của Đảng là quyết định nhất bản chất chính trị, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta. Nếu không còn nội dung trung thành tuyệt đối với sự lãnh đạo của Đảng thì sẽ dẫn Quân đội ta đi vào trung lập hóa, bị “phi chính trị hóa” và cuối cùng cái trung thành với Tổ quốc, với Nhân dân cũng sẽ không còn. Về bản chất, giữ vững nội dung trung thành tuyệt đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã bao hàm sự trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và mục tiêu bảo vệ cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Việc tách và bỏ nội dung trên là làm cho khái niệm phẩm chất trung thành của Quân đội ta trở lên trống rỗng, đánh mất bản chất chính trị cách mạng, bản chất giai cấp công nhân; xa rời mục tiêu lý tưởng, mục tiêu chiến đấu,… trượt khỏi chế độ xã hội chủ nghĩa để đi vào quỹ đạo chủ nghĩa tư bản.
Cả lý luận và thực tiễn đều chỉ rõ: không có và không thể có bất kỳ một quân đội nào lại không gắn với một đảng cầm quyền. Và quân đội luôn mang bản chất chính trị, bản chất của một giai cấp nhất định, đó là giai cấp, nhà nước tổ chức ra, sử dụng nó. Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức, lãnh đạo Quân đội, được khẳng định rõ tại Điều 25, Chương VI, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam: “Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt; sự lãnh đạo của Đảng được tập trung thống nhất vào Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; Đảng quyết định những vấn đề cơ bản xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, tham gia xây dựng đất nước. Nhà nước thống nhất quản lý đối với Quân đội, Công an và sự nghiệp quốc phòng, an ninh theo quy định của Hiến pháp và pháp luật”. Trong đó, chính trị của Quân đội ta tập trung cao nhất ở phẩm chất trung thành tuyệt đối với sự lãnh đạo của Đảng rồi mới đến các phẩm chất trung thành khác. Việc tách và bỏ phẩm chất trung thành tuyệt đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng có nghĩa đưa Quân đội rơi vào “phi chính trị hóa”, mất định hướng chính trị xã hội chủ nghĩa, vu vơ về chính trị, như một thể xác không có linh hồn. Điều này đã được thực tiễn minh chứng rõ từ việc các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô trước đây là khi đất nước, Tổ quốc diễn ra chính biến chính trị thì quân đội tuyên bố trung lập, mất định hướng chính trị xã hội chủ nghĩa dẫn đến sụp đổ cả một chế độ xã hội. Có nhiều nhân tố dẫn đến việc đánh mất nội dung trung thành tuyệt đối với sự lãnh đạo của Đảng; trong đó, trực tiếp là việc để các quan điểm phản động xâm nhập vào đời sống tinh thần xã hội, mà không được khắc phục, ngăn ngừa, đẩy lùi kịp thời, có hiệu quả từ sớm. Quá trình chuyển từ thúc đẩy “diễn biến” đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cũng bắt đầu từ phương pháp dùng thuật ngụy biện, đánh tráo khái niệm, mà cụ thể là luận điểm: quân đội không cần trung thành với Đảng, chỉ cần trung thành với Tổ quốc và Nhân dân. Từ chỗ xem nhẹ loại luận điểm này đến chấp nhận, nhượng bộ, thỏa hiệp, đánh mất phẩm chất trung thành tuyệt đối với sự lãnh đạo của Đảng và cuối cùng là đứng ngoài chính trị, “phi chính trị hóa” Quân đội. Đây là một ngón đòn rất “lợi hại” của các thế lực thù địch.
Với ý nghĩa đó chúng ta khẳng định rằng, không chấp nhận luận điểm: Quân đội không cần trung thành với Đảng, chỉ cần trung thành với Tổ quốc và Nhân dân. Bởi, nó là một chiêu trò đánh lừa dư luận, hòng phủ nhận sự độc tôn lãnh đạo của Đảng với Quân đội nhân dân Việt Nam, nhằm phá vỡ nền tảng chính trị của Quân đội, làm cho Quân đội mất phương hướng, mục tiêu chiến đấu, không còn khả năng làm nòng cốt cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Vì thế, chúng ta cần kiên quyết đấu tranh bác bỏ; tiếp tục quán triệt lời chỉ dẫn của V.I. Lênin: “Thống nhất về mặt tư tưởng bằng truyền bá những tư tưởng nhất định, làm sáng tỏ sự đối chọi giai cấp, sự phân định ranh giới về mặt tư tưởng. Thống nhất về mặt tư tưởng bằng truyền bá những tư tưởng có khả năng đẩy lên phía trước, những tư tưởng của giai cấp tiên phong”2 vào củng cố thái độ dứt khoát: “phẩm chất trung thành của Quân đội là không thể xuyên tạc” hiện nay. Trên cơ sở đó, định hướng cho các khâu, các bước tuyên truyền, giáo dục, nâng cao chất lượng, đổi mới phương pháp vạch trần thuật ngụy biện trong đấu tranh, phản bác các quan điểm phản khoa học, phản động của các thế lực thù địch. Chỉ như vậy chúng ta mới có cơ sở khoa học đấu tranh, phê phán các quan điểm sai trái một cách thuyết phục, làm vô hiệu hóa chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, góp phần xây dựng Quân đội ta thật sự là một cơ thể cường tráng “miễn dịch” với các vi rút độc hại, sự chống phá của các thế lực thù địch.
ĐỨC MINH
________
1 - C. Mác và Ph. Ăngghen – Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2002, tr. 623.
2 - V.I. Lênin – Toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, H. 2005, tr. 530.

TRAO TẶNG GIẢI THƯỞNG LÊ NIN - GIẢI THƯỞNG CAO QUÝ NHẤT CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN BANG NGA VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ CHO TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG

 Chiều 15/12, tại Trụ sở Trung ương Đảng đã long trọng diễn ra Lễ trao tặng Giải thưởng Lenin của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên bang Nga cho Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Đồng chí Lê-ô-nhít Ka-lát-xnhi-cốp, Phó Chủ tịch Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề về khối Cộng đồng các quốc gia độc lập, Liên kết Á-Âu và Kiều bào của Duma Quốc gia Nga, đã thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên bang Nga trao tặng Tổng Bí thư Nguyễn Phú trọng Giải thưởng cao quý nhất của Đảng Cộng sản Liên bang Nga và Đảng Cộng sản Liên Xô.
Cùng dự buổi lễ có Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Phạm Minh Chính, ông Võ Văn Thưởng – Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, các Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng và các cơ quan, tổ chức liên quan của Việt Nam; Đại sứ đặc mệnh toàn quyền và lãnh đạo các cơ quan hợp tác về quốc phòng, văn hóa, khoa học của Liên bang Nga tại Việt Nam. Trước đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tiếp thân mật đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Liên bang Nga.
Giải thưởng Lenin là phần thưởng cao quý nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên bang Nga. Việc Đảng Cộng sản Liên bang Nga trao tặng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng Giải thưởng cao quý này nhân dịp 150 năm kỷ niệm ngày sinh của Lenin thể hiện sự trân trọng và ghi nhận đối với những đóng góp xuất sắc của Tổng Bí thư – nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, được đánh giá cao tại Nga và trên thế giới, trong việc phấn đấu vì công bằng, nhân văn và tiến bộ xã hội; vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và nghiên cứu làm phong phú lý luận và thực tiễn cho việc phát triển chủ nghĩa Mác-Lenin, cũng như những nỗ lực không ngừng nhằm củng cố quan hệ hữu nghị Việt Nam – Liên bang Nga.
Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Lê Hoài Trung cho biết: “Giải thưởng Lenin là giải thưởng cao quý nhất của Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Liên bang Nga trao tặng cho các tổ chức, cá nhân ưu tú có những đóng góp to lớn và xuất sắc trong việc thúc đẩy tiến bộ, công bằng trong xã hội cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như là trong vấn đề kết luận thúc đẩy lý luận và qua thực tiễn để thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa Mác-Lenin”.
Phát biểu tại buổi tiếp và tại Lễ Trao tặng Giải thưởng Lenin cho Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đồng chí Lê-ô-nhít Ka-lát-xnhi-cốp khẳng định, thành công của Việt Nam là minh chứng sinh động cho chủ nghĩa xã hội được hiện thực hóa.
Đảng Cộng sản Liên bang Nga luôn coi trọng quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp với Đảng Cộng sản Việt Nam và mong muốn hợp tác giữa hai Đảng tiếp tục được tăng cường, góp phần thúc đẩy quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Liên bang Nga phát triển toàn diện vì lợi ích của nhân nhân hai nước, vì hòa bình, ổn định ở khu vực và quốc tế.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bày tỏ sự xúc động và cảm ơn Đảng Cộng sản Liên bang Nga đã trao tặng Giải thưởng mang tên Lenin cao quý, coi đó không chỉ là sự ghi nhận đối với cá nhân ông mà còn là sự trân trọng và tình cảm của Đảng Cộng sản Liên bang Nga, đất nước và nhân dân Nga đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam; đồng thời thể hiện truyền thống quan hệ đặc biệt giữa Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam với Đảng Cộng sản và nhân dân Liên Xô trước đây, Liên bang Nga ngày nay.
Đánh giá cao những thành tựu mà Liên bang Nga đạt được trong phát triển đất nước, nâng cao vị thế quốc tế và những sự phát triển của Đảng Cộng sản Liên bang Nga, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ, Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây chính là nguyên nhân, là ngọn cờ tư tưởng và giúp nhân dân Việt Nam giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước trước đây, cũng như trong công cuộc đổi mới, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.
“Đây cũng là dịp nhắc nhở chúng tôi sẽ tiếp tục củng cố, tăng cường hơn nữa mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp truyền thống suốt bao nhiêu năm qua giữa nhân dân hai nước chúng ta. Chúng tôi hứa sẽ tiếp tục làm hết sức mình để củng cố quan hệ hữu nghị đoàn kết anh em, đồng chí giữa nhân dân Liên bang Nga và nhân dân Việt Nam, nhân dân Việt Nam và nhân dân Liên bang Nga và sự nghiệp của chúng ta sẽ phát triển hết sức lâu dài và đầy triển vọng”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chia sẻ.
Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm
Nhân dịp này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng bày tỏ chân thành cảm ơn sự giúp đỡ to lớn, chí tình, hiệu quả mà nhân dân Liên Xô trước đây, Liên bang Nga ngày nay luôn dành cho nhân dân Việt Nam; khẳng định cùng Đảng Cộng sản Liên bang Nga và các đối tác Nga tiếp tục củng cố, tăng cường quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Liên bang Nga, quan hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước./.

KHÔNG THỂ CÓ NỀN BÁO CHÍ, VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT "TỰ DO VÔ HẠN ĐỘ"

 “Dân tộc nào đánh mất bản sắc thì dân tộc đó sẽ bị đồng hóa” (Các Mác). Trong thời đại Công nghệ 4.0, “thế giới phẳng” như hiện nay, các quốc gia – dân tộc có thể vẫn giữ được chủ quyền biên giới lãnh thổ nhưng nếu không có chính sách phát triển đúng đắn thì sẽ thất bại trước các cuộc “xâm lăng văn hóa”, mà mất bản sắc văn hóa là mất tất cả.

Thành tựu của nền báo chí, văn học – nghệ thuật Việt Nam là không thể phủ nhận.
Đối với Việt Nam, những thành tựu của báo chí, văn học – nghệ thuật từ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là không thể phủ nhận. Cần phải khẳng định rằng: Đảng lãnh đạo là nhân tố quyết định cho sự phát triển nền báo chí, văn học – nghệ thuật lành mạnh, tiến bộ ở Việt Nam.
Chỉ trong 35 năm Đổi Mới, Đảng ta đã ban hành hơn 30 nghị quyết, kết luận, chỉ thị về văn hóa, báo chí – xuất bản, văn học – nghệ thuật. Nhận thức của Đảng về vị trí, vai trò to lớn của báo chí, văn học – nghệ thuật ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn. Theo đó, văn hóa, báo chí – xuất bản, văn học – nghệ thuật là những thành tố nòng cốt của nền văn hóa, là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, nguồn sức mạnh nội sinh quan trọng để phát triển đất nước.
Thực hiện chủ trương quy hoạch, sắp xếp hợp lý hệ thống báo chí, truyền thông, cho đến tháng 6-2021, cả nước có 779 cơ quan báo, tạp chí in; 105 báo, tạp chí điện tử; 1.510 trang thông tin điện tử, 228 mạng xã hội được cấp phép; 67 đài phát thanh – truyền hình Trung ương và địa phương; 1 hãng thông tấn quốc gia; hơn 41.000 người làm báo. Ngoài ra còn có nhiều kênh truyền hình quốc tế nổi tiếng được cấp phép hoạt động ở Việt Nam; nhiều hãng thông tấn, báo chí lớn của quốc tế có cơ quan và phóng viên thường trú tại Việt Nam. Đời sống văn hóa – văn nghệ của nhân dân ngày càng phong phú, sôi động. Trên tinh thần vừa giữ gìn bản sắc dân tộc, vừa chủ động chắt lọc, tiếp thu nhữngtinh hoa văn hóa thế giới, các sản phẩm văn hóa – văn nghệ của Việt Nam ngày càng phong phú, đa dạng. Rất nhiều di sản văn hóa và thiên nhiên của Việt Nam được UNESCO vinh danh là di sản thế giới…
Thực tế trên là rất sinh động và thuyết phục, thế nhưng trên không gian mạng và một vài diễn đàn vẫn có những quan điểm, tiếng nói lạc lõng cho rằng: “Dưới chế độ đảng trị thì dẫu có cả nghìn tờ báo, kênh phát thanh – truyền hình, báo chí Việt Nam vẫn chỉ là báo chí một chiều, thông tin theo định hướng”; “báo chí Việt Nam đều có chung một ông Tổng Biên tập”; rồi “văn học – nghệ thuật do Đảng lãnh đạo là thứ văn học – nghệ thuật minh họa nghị quyết”…
Cứ theo quan điểm của những người phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng thì để có nền báo chí, văn học – nghệ thuật “thực sự”, các nhà báo, nhà văn có quyền thông tin vô hạn độ, “thông tin trong thế giới phẳng không có biên giới, không có vùng cấm”, hay các văn nghệ sĩ được quyền tự do tư tưởng tuyệt đối trong sáng tạo và công bố tác phẩm.
Vậy hiện nay, trên thế giới đã có quốc gia nào có nền báo chí, văn học – nghệ thuật đạt đến trình độ “tự do tuyệt đối” như vậy chưa?
Tự do báo chí, văn học – nghệ thuật trên thế giới
Ở Vương quốc Anh, mọi người có thể công khai diễn thuyết trong trường hợp nhất định và có không gian xác định nhằm tuyên truyền cho chủ trương của mình, thậm chí có thể thóa mạ cả thủ tướng, quan đại thần, nhưng nếu có người hô “đả đảo Chính phủ nước Anh”, “đả đảo Nữ hoàng” hoặc tuyên truyền bạo lực cách mạng, thì sẽ bị coi là tội phạm và bị bắt ngay. Ở Pháp, tự do báo chí được đề cập rất sớm, ngay trong tiến trình cách mạng 1789, Đạo luật đầu tiên của Quốc hội Pháp thời bấy giờ là bản Tuyên bố Dân quyền và Nhân quyền. Điều 11 của Tuyên bố này đã xác lập quyền tự do báo chí. Tuy nhiên, năm 1881, nền Cộng hòa lần thứ ba của nước Pháp đã ban hành một Đạo luật về tự do báo chí. Đạo luật này, đến nay về vẫn cơ bản còn giá trị; cùng với việc công nhận quyền tự do báo chí, Đạo luật 1881 đã xác lập giới hạn trong tự do báo chí, bằng việc đưa ra các định nghĩa về tội phạm báo chí… Còn ở Hoa Kỳ – nơi được các “nhà dân chủ” xem như một hình mẫu của “thế giới tự do” khi họ viện dẫn Hiến pháp Liên bang Hoa Kỳ quy định Quốc hội không có quyền ban hành văn bản hạn chế tự do báo chí. Tuy nhiên, họ quên rằng, rất nhiều đạo luật, bộ luật đã cụ thể hóa vấn đề này. Đạo Luật Trấn áp phản loạn của nước Hoa Kỳ quy định: “Việc viết, in, phát biểu hay phổ biến…mọi văn bản sai sự thực, có tính chất xúc phạm hay ác ý chống chính quyền đều là tội”. Hay Điều 238, Bộ Luật Hình sự của nước này nghiêm cấm mọi hành vi “In ấn, xuất bản, biên tập, phát thanh, truyền bá, buôn bán, phân phối hoặc trưng bày công khai bất kỳ tài liệu viết hoặc in nào có nội dung vận động, xúi giục hoặc giảng giải về trách nhiệm, sự cần thiết tham vọng hoặc tính đúng đắn của hành vi lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ chính quyền cấp nào tại Mỹ bằng vũ lực hoặc bạo lực”…
Nhà nước và xã hội trả giá đắt nếu lạm dụng tự do báo chí, văn học – nghệ thuật
Như vậy, không chỉ có Việt Nam mà ở mọi quốc gia trên thế giới cùng với việc công nhận quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật trên cơ sở Công ước quốc tế và điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, lịch sử truyền thống cũng như sự ổn định, phát triển ở mỗi quốc gia, đều ban hành những quy định pháp lý cụ thể, đưa ra những giới hạn nhất định để bảo đảm việc thực thi quyền con người.
Tuy nhiên, một khi những quyền này bị lạm dụng thì nhà nước và xã hội đều phải trả giá đắt. Còn nhớ cách đây chưa lâu, một hãng phim Mỹ tung ra thị trường bộ phim “Sự ngây thơ của các tín đồ Hồi giáo” đã khiến toàn thể tín đồ đạo Hồi trên thế giới phẫn nộ, gây nên nhiều cuộc biểu tình, bạo động, bao vây, đe dọa an ninh các sứ quán Mỹ ở nhiều nước… Còn ở Pháp, ngày 7 tháng 01 năm 2015 được xem là ngày đen tối nhất trong lịch sử báo chí nước Pháp, một nhóm khủng bố đã tấn công trụ sở Tòa soạn báo Charlie Hebdo, sát hại 12 người vì lý do tờ báo này đã vẽ tranh châm biếm tôn giáo của họ. Trước sự kiện thảm sát tại Tòa soạn báo Charlie Hebdo, Giáo hoàng Francis đã cho rằng: “Tự do báo chí không phải vô giới hạn khi tự do đó xúc phạm tới tín ngưỡng tôn giáo”. Tổng thư ký Liên hợp quốc Ban Ki Mun lúc bấy giờ cũng lên tiếng: “Tự do ngôn luận được bảo vệ khi nó được sử dụng vào mục đích công lý và cộng đồng… Khi một số người sử dụng quyền tự do này để khiêu khích hoặc sỉ nhục các giá trị niềm tin của người khác thì hành động đó sẽ không được bảo vệ”.
Điều 29 trong “Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền” của Liên hợp quốc (năm 1948) khẳng định các quyền con người có thể bị hạn chế theo luật định: “Mỗi người đều có nghĩa vụ đối với cộng đồng, trong khi hưởng thụ các quyền về tự do cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền tự do của người khác và phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”
Những vấn đề cơ bản lý luận và thực tiễn ở Việt Nam cũng như một số quốc gia nêu trên đã chứng minh rằng, ở mọi quốc gia trên thế giới, không hề và không thể có nền báo chí, văn học – nghệ thuật nào “tự do tuyệt đối”, ‘tự do vô hạn”. Những quan điểm, giọng điệu như đã nêu thực chất chỉ là chiêu trò lợi dụng tự do báo chí, văn học – nghệ thuật để chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam mà thôi.

Trung sĩ Công an cứu người đuối nước, lan tỏa điều tốt đẹp trong cuộc sống

  Trung sĩ Công an cứu người đuối nước, lan tỏa điều tốt đẹp trong cuộc sống      Phát hiện 2 cháu bé đang chấp chới giữa dòng nước, không q...